TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG QUÂN TÌNH NGUYỆN VÀ CHUYÊN GIA VIỆT NAM TẠI LÀO ( 30/10/1949 - 30/10/2019 )

          Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc, nhân dân hai nước Việt Nam - Lào đã có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 02/9/1945) và Chính phủ Lào Ít-xa-la (ngày 12/10/1945) là cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt Nam - Lào lên tầm liên minh chiến đấu.

           Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào - Việt (ngày 16/10/1945) và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt (ngày 30/10/1945). Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung.

          Từ năm 1948, 1ực lượng quân sự của Việt Nam tại Lào đã từng bước được tổ chức thành các đơn vị độc lập với quy mô cấp đại đội, tiểu đoàn và trung đoàn. Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện”. Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngày 30/10/1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào.

          Với tinh thần quốc tế vô sản và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình ”, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng quân và dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), nổi bật là:

         Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Sau khi lực lượng kháng chiến Lào chuyển từ đô thị về các vùng nông thôn, miền núi và sang vùng biên giới Thái Lan, cơ sở chính trị quần chúng còn rất ít; các đoàn Quân tình nguyện phải phân tán lực lượng, thành lập các đội công tác cơ sở, đội vũ trang tuyên truyền đi vào các bản mường tuyên truyền, giáo dục đường lối kháng chiến, giác ngộ và tổ chức nhân dân vào các hội Ít-xa-la. Trong điều kiện hết sức khó khăn, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện đã nêu cao ý chí quyết tâm, sẵn sàng hy sinh, thực hiện “ba cùng” với dân, kiên trì bám trụ, xây dựng cơ sở cách mạng. Các đoàn Quân tình nguyện không chỉ giúp bạn tổ chức các đoàn thể, chính quyền kháng chiến, mà còn chú trọng đến sản xuất, nâng cao đời sống, văn hóa, y tế và đoàn kết các bộ tộc Lào.

         Cùng với việc giúp bạn xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang, các đoàn Quân tình nguyện hết sức coi trọng nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho bạn. Trong những thời điểm khẩn trương, ác liệt của cuộc kháng chiến, Quân tình nguyện vẫn tranh thủ mở các lớp huấn luyện ngắn ngày để huấn luyện cán bộ cho bạn. Tại Trung Lào, Đoàn 280 Quân tình nguyện giúp bạn tổ chức 4 lớp đào tạo với hơn 300 cán bộ sơ cấp chính trị, quân sự, góp phần tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy ở các đơn vị Quân đội Lào Ít-xa-la.

        Từ năm 1951-1952, Quân tình nguyện cùng quân và dân Lào vừa chống địch càn quét, bảo vệ khu căn cứ kháng chiến; vừa phải tiến hành các mặt xây dựng và phát triển thực lực cách mạng. Các khu căn cứ kháng chiến, căn cứ du kích được củng cố và phát triển là chỗ dựa quan trọng để cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến; đồng thời là bàn đạp để tiến công tiêu diệt địch trong các trận đánh lớn, trong các chiến dịch quan trọng. Đồng thời với việc chiến đấu bảo vệ căn cứ kháng chiến, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với Quân đội Lào và nhân dân các bộ tộc Lào triển khai chu đáo các mặt công tác chuẩn bị chiến trường. Nhờ đó, trong các trận đánh, nhất là trong các chiến dịch Thượng, Trung và Hạ Lào diễn ra trong các năm 1953 và 1954, quy mô lực lượng của ta và bạn tham gia ngày càng lớn, khối lượng lương thực, vũ khí và các nhu cầu khác bảo đảm cho tác chiến ngày càng tăng.

         Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ: Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã giúp bạn về quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, trong đó chú trọng xây dựng Quân đội Pa-thét Lào (sau Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào (3/1955), Quân đội Lào Ít-xa-la đổi tên thành Quân đội Pa-thét Lào; tháng 7/1967 đổi thành Quân đội Giải phóng nhân dân Lào; tháng 7/1982 đổi thành Quân đội nhân dân Lào), làm nòng cốt cho các lực lượng vũ trang và nhân dân các bộ tộc Lào kháng chiến; đồng thời, quan tâm giúp đỡ xây dựng các đơn vị trung lập yêu nước cùng đoàn kết phối hợp chiến đấu với Quân đội Pa- thét Lào.

          Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã từng bước giúp bạn huấn luyện nâng cao trình độ quân sự, gồm 4 kỹ thuật lớn, trong đó chú trọng kỹ thuật bắn súng và nguyên tắc vận dụng các hình thức chiến thuật đánh địch trong mọi tình huống; tích cực giúp bạn mở các lớp huấn luyện cán bộ ngắn ngày về chính trị, quân sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho bạn ở từng giai đoạn cách mạng.

         Với vai trò nòng cốt, Quân tình nguyện Việt Nam tiếp tục chủ động phối hợp với lực lượng vũ trang Pa-thét Lào đẩy mạnh các hoạt động tác chiến ở vùng Trung và Hạ Lào, cùng thực hiện thắng lợi chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy tại khu vực Đường 9 - Nam Lào làm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi từng bước về quân sự, hỗ trợ cuộc đấu tranh chung của nhân dân nước bạn Lào, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, tiến tới đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” của đế quốc Mỹ ở Lào; góp phần thúc đẩy tình thế, cùng các đòn tiến công và nổi dậy của quân và dân Nam Bộ, Tây Nguyên trên chiến trường chính Việt Nam, làm cho địch thất bại từng bước tiến tới thất bại hoàn toàn.

         Mùa khô 1970-1971, đế quốc Mỹ chọn khu vực Đường 9 - Nam Lào để mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh phá tuyến vận tải chiến lược của ta. Các đơn vị Quân tình nguyện và Chuyên gia được giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch đã phối hợp với bạn đẩy mạnh các hoạt động sau lưng địch, phá thế chuẩn bị chiền trường của chúng. Lực lượng vũ trang Lào đã phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam đập tan lực lượng địch tiến công ra Đường 9 - Nam Lào, diệt và bắt hơn 23.000 tên, bắn rơi và phá hủy 300 máy bay các loại, 600 xe quân sự và 150 khẩu pháo, trực tiếp góp phần bảo vệ vững chắc tuyến vận tải chiến lược - đường Hồ Chí Minh phía Tây Trường Sơn.

       Nhờ chuẩn bị chiến trường chu đáo, trong các chiến dịch tiến công trên chiến trường Lào những năm 1962-1972, lực lượng Quân tình nguyện, quân chủ lực của ta và bạn tham gia ngày càng lớn. Ngoài ra, còn có hàng nghìn đội dân quân du kích và dân công phục vụ trên địa bàn chiến dịch. Chiến trường Lào đã trở thành chiến trường phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính, tạo nên những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Việt Nam,Lào, Campuchia.

        Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam và Lào thành hai nước độc lập, thống nhất, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quan hệ hai nước bước sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn hợp tác toàn diện. Ngày 18/7/1977, trong cuộc thăm chính thức nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hai nước ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác, Hiệp ước hoạch định đường biên giới quốc gia và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài. Việc tìm kiếm, cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam trên đất Lào cũng được hai bên quan tâm, tích cực phối hợp và đạt kết quả tốt.

          Những năm gần đây, quan hệ hữu nghị Việt - Lào, Lào - Việt được lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước tiếp tục quan tâm vun đắp, củng cố, tăng cường, coi đây là quy luật giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển của mỗi nước. Trong chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước ta từ ngày 24 đến 25/02/2019, hai bên đã nhấn mạnh mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông kính yêu gây dựng, được các thế hệ lãnh đạo của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản chung vô giá của hai Đảng, hai dân tộc, nhân tố bảo đảm sự tồn tại và phát triển của hai nước.

          Đối với tuyến biên giới Việt - Lào, chúng ta tiếp tục triển khai dự án tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc biên giới đất liền Việt Nam - Lào tiếp tục khẳng định ý nghĩa quan trọng của tình đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, góp phần xây dựng và bảo vệ quản lý đường biên giới Việt Nam - Lào hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hai bên đang phối hợp xây dựng quy hoạch và phát triển cửa khẩu biên giới cũng như phát triển thương mại Việt Nam - Lào đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035.

        Đảng và Nhà nước Việt Nam trước sau như một hết sức coi trọng quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống và hợp tác với Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào. Coi đây là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, các thế hệ hôm nay và mai sau phải có trách nhiệm cùng nhau giữ gìn, không ngừng vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, truyền thống lâu đời, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt - Lào lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới./.

                                                                                                    Ban biên tập